Phát huy truyền thống 50 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành

Trải qua hơn 50 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Đồn Biên phòng CKQT Lệ Thanh đã được Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành trao tặng nhiều phần thưởng cao quý. Đặc biệt, ngày 20/12/1979, đơn vị vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”; nhiều CB,CS được tặng thưởng huân chương các hạng và nhiều phần thưởng cao quý khác.

Cán bộ chiến sĩ Đồn biên phòng CKQT Lệ Thanh tuần tra bảo vệ cột mốc.

Đồn 23 được thành lập ngày 15/6/1975 (nay Đồn Biên phòng CKQT Lệ Thanh) đứng chân trên địa bàn xã IaKla huyện ChưPăh (nay là xã IaDom, huyện Đức Cơ). Ra đời ngay trong những ngày đầu miền Nam hoàn toàn giải phóng, đơn vị phải trực tiếp đương đầu với những khó khăn thử thách, vừa hình thành tổ chức, xây dựng đơn vị, vừa thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới chưa được hoạch định, bảo vệ địa bàn sau giải phóng, đồng thời là lực lượng nòng cốt đấu tranh với bọn phản động, vận động quần chúng đánh bại mọi âm mưu thủ đoạn của các loại tình báo, gián điệp Mỹ – ngụy chưa từ bỏ âm mưu phá hoại. Vượt qua muôn vàn gian khổ hy sinh, CB,CS Đồn Biên phòng CKQT Lệ Thanh càng chiến đấu càng trưởng thành và đã hoàn thành suất sắc nhiệm vụ được giao.

Trước yêu cầu, nhiệm vụ quản lý bảo vệ biên giới đặt ra rất khẩn trương, thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban chỉ huy an ninh vũ trang biên giới Gia Lai, Đồn Biên phòng 23 vừa triển khai xây dựng đơn vị vừa phải tiến hành ngay cuộc đấu tranh trực diện với tập đoàn phản động Pôl Pốt – Iêng xa ri (Khmer Đỏ) bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên giới. Cùng quân và dân trong tỉnh, đơn vị đã đánh bại hành động xâm lược của kẻ thù, giữ vững từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. Cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam kết thúc, Đồn lại bắt tay vào đấu tranh chống FULRO, ngăn chặn bọn phản động lưu vong xâm nhập về chống phá cách mạng, ngăn chặn người vượt biên giới trái pháp luật… Trong thời kỳ đổi mới, là lực lượng nòng cốt chuyên trách quản lý bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới, đơn vị luôn quán triệt, nắm vững và vận dụng đúng đắn sáng tạo đối sách trong từng giai đoạn, triển khai đồng bộ, toàn diện công tác biên phòng, tham mưu kịp thời cho cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp về quản lý bảo vệ biên giới, xây dựng nền biên phòng toàn dân gắn với nền QPTD, thế trận ANND vững mạnh, xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, đơn vị cũng đồng sức, đồng lòng khắc phục vượt qua, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.

Là một đơn vị quân đội đứng chân trên địa bàn xã Ia Dom Đồn Biên phòng CKQT Lệ Thanh đã đồng hành cùng với xã Ia Dom trong phong trào BĐBP chung sức giúp dân phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo và xây dựng NTM tại địa bàn như: Mô hình “Bếp ăn tình thương”; “con nuôi đồn biên phòng”;  Chương trình: “Nâng bước em đến trường”, “Mái ấm cho người nghèo nơi biên giới, hải đảo”;“Quân dân y kết hợp”; Phong trào như: “BĐBP chung sức xây dựng Nông thôn mới ”;  “phong trào  toàn dân tham gia bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, ANBGQG trong tình hình mới”… đã góp phần cùng với địa phương hoàn thành chương trình xây dựng NTM, xây dựng xã biên giới vững mạnh về mọi mặt.

Cán bộ chiến sĩ Đồn biên phòng CKQT Lệ Thanh phối hợp với các lực lượng chức đấu tranh phòng, chống gian lận thương mại, hàng giả.

Sau giải phóng, tình hình xã hội Miền Nam nói chung và tỉnh Gia Lai nói riêng còn rất phức tạp, số ngụy quân, ngụy quyền sau một thời gian lẩn trốn đã câu kết với nhau chống phá chính quyền cách mạng. Được các thế lực thù địch bên ngoài tiếp tay chỉ đạo, chúng tổ chức vượt biên, xây dựng mật cứ, kích động quần chúng bạo loạn, tập kích vũ trang để cướp chính quyền. Bảo vệ độc lập chủ quyền lãnh thổ, giữ vững chính quyền cách mạng là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong giai đoạn này.

Trước tình hình trên, Đảng đoàn Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) chỉ thị cho Bộ Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang: “Khẩn trương củng cố, kiện toàn tổ chức, xây dựng lực lượng Công an nhân dân vũ trang vững mạnh để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, kiện toàn bộ máy, tổ chức lãnh đạo, chỉ huy Công an nhân dân vũ trang các tỉnh phía Nam, khẩn trương triển khai đồn trạm quản lý bảo vệ biên giới”.

Về các đồn biên phòng, trước mắt, Bộ Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang quyết định triển khai và thành lập ở tỉnh Gia Lai 4 đồn biên phòng, mỗi đồn được biên chế 23 đồng chí, hình thành đủ bộ máy tổ chức chỉ huy, các đội nghiệp vụ và bộ phận phục vụ theo biên chế của 1 đồn Công an nhân dân vũ trang đang làm nhiệm vụ tại các tỉnh phía bắc. Bộ Tư lệnh quy định rõ phiên hiệu của các đồn thuộc quyền chỉ huy của Ban chỉ huy An ninh vũ trang biên phòng tỉnh Gia Lai là Đồn Biên phòng 19, Đồn Biên phòng 21, Đồn Biên phòng 23 và  Đồn Biên phòng 25. Về vị trí đóng đồn cụ thể, Bộ Tư lệnh giao cho An ninh vũ trang biên phòng tỉnh Gia Lai tổ chức khảo sát xác định với yêu cầu: đồn xa biên giới nhất không quá 2 km, đồn gần biên giới nhất không quá 400m.

Lực lượng An ninh vũ trang, Công an nhân dân Vũ trang Gia Lai (tiền thân của BĐBP tỉnh Gia Lai ngày nay) ra đời trong những năm chiến tranh chống Mỹ cứu nước bước vào giai đoạn khốc liệt nhất. Trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn gian khổ ấy, những người lính An ninh vũ trang luôn son sắt, kiên trung với Đảng, với cách mạng, kiên trì bền bỉ, bám đất, bám dân, trụ vững giữa lòng địch, xây dựng cơ sở chính trị, vận động và tổ chức quần chúng nhân dân đấu tranh trực diện với kẻ thù, tiến hành công tác binh, địch vận, phá vỡ nhiều âm mưu của các tổ chức tình báo, mật vụ, hỗ trợ đắc lực cho các cuộc nội dậy của quần chúng, phá vỡ ấp chiến lược, mở rộng vùng giải phóng. Trong những năm đầu xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, An ninh vũ trang Gia Lai đã diệt 562 tên, bắt sống 211 tên, góp phần quan trọng cùng quân và dân lập kỳ tích trong chặng đường hào hùng của lịch sử dân tộc: giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã khép lại một giai đoạn lịch sử hào hùng của cách mạng Việt Nam, đồng thời mở thời kỳ mới – Thời kỳ cả nước cùng thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược đó là: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cùng chung nhiệm vụ đó, An ninh vũ trang Gia Lai, bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ quản lý bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội.

Cuối năm 1975 trở đi, trên khu vực biên giới tiếp giáp với tỉnh Gia Lai – Kon Tum, Sư đoàn 801 thuộc Quân khu Đông Bắc/Campuchia đã triển khai quân ra sát biên giới và liên tục tung lực lượng lén lút qua đất ta để nắm tình hình và khiêu khích các đơn vị quân đội đang làm nhiệm vụ trên địa bàn. Đến cuối năm 1977, chính quyền phản động Khmer Đỏ bắt đầu mở cuộc tấn công quy mô lớn vào hầu hết các đồn, trạm Biên phòng của ta đóng dọc biên giới. Trong khoảng thời gian này, chúng đã tập trung lực lượng từ cấp tiểu đoàn đến trung đoàn nhằm đánh chiếm bằng được các Đồn Biên phòng 657 (Đồn Biên phòng IaMơ); Đồn 653 (Đồn Biên phòng Ia Pnôn) và Đồn 649 (Đồn Biên phòng CKQT Lệ Thanh ngày nay).

Cán bộ chiến sĩ Đồn biên phòng CKQT Lệ Thanh tuần tra bảo vệ biên giới

Trước những hoạt động phá hoại, chống chính quyền, cướp bóc, tàn sát mang tính khủng bố của bọn phản động FULRO, thực hiện Chỉ thị số 04/CT-TW ngày 22/02/1977 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc “Tiếp tục phát động quần chúng, xây dựng cơ sở chính trị, truy quét FULRO, bảo vệ an ninh chính trị các tỉnh Tây Nguyên và Nam khu V cũ”, tại tỉnh Gia Lai, Tỉnh uỷ – UBND tỉnh đã chỉ đạo các lực lượng của ta bóc gỡ được 175 cơ sở ngầm của FULRO; kêu gọi 10.450 lượt đối tượng có liên quan đến FULRO ra đầu thú, cải tạo tại chỗ 1.437 đối tượng; triệt phá, xoá bỏ 03 khung chính quyền ngầm cấp xã; 28 khung chính quyền ngầm cấp thôn của FULRO. Trong công tác đấu tranh vũ trang, các lực lượng trong tỉnh đã tổ chức 192 trận đánh, tiêu diệt và bắt sống hơn 200 tên, kêu gọi 180 tên ra đầu hàng, thu 569 súng các loại, làm tan rã 01 khung sư đoàn, 2 khung trung đoàn, 5 khung tiểu đoàn của FULRO trên địa bàn tỉnh. Giai đoạn những năm 1987 – 1991, các ổ nhóm phản động FULRO đã cơ bản bị tê liệt, một số tìm đường chạy trốn sang Campuchia. Đến ngày 10/10/1992 tàn quân FULRO ở Campuchia đã phải ra trình diện UNTAC (Liên Hợp quốc) sau đó được đưa đi định cư tại Mỹ. Như vậy, đến cuối năm 1992, hoạt động vũ trang của FULRO cơ bản đã chấm dứt.

Trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, với những thành tích đã đạt được, BĐBP tỉnh Gia Lai có 01 tập thể (Đồn Biên phòng Cửa khẩu quốc Tế Lệ Thanh) vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu anh hùng LLVTND, 05 tập thể cùng hàng chục CB,CS được tặng thưởng  Huân chương chiến công các hạng, hàng trăm lượt CB,CS được tặng danh hiệu Chiến sỹ quyết thắng, Chiến sỹ thi đua, Bằng, Giấy khen và nhiều phần thưởng cao quý khác.

Cán bộ chiến sĩ Đồn biên phòng CKQT Lệ Thanh chăm sóc các em học sinh trong thực hiện Mô hình “Bếp ăn tình thương”.

Ngay sau ngày tỉnh Gia Lai được giải phóng (17/3/1975), chấp hành sự chỉ đạo của Tỉnh ủy và Ban an ninh tỉnh, ngày 23/3/1975 lực lượng An ninh vũ trang từ khu 10 chuyển về thị xã Pleiku, phối hợp với đội An ninh vũ trang Khu 9 và các lực lượng khác bắt tay vào tiếp quản các cơ quan cảnh sát, trại giam, trụ sở các đảng phái phản động, đồng thời gấp rút xây dựng lực lượng trong vùng giải phóng, triển khai lực lượng lập các chốt kiểm soát, bảo vệ các mục tiêu quan trọng của tỉnh và tổ chức lực lượng tuần tra, kiểm soát bảo vệ trật tự trị an trong khu vực thị xã Pleiku.

Trước tình hình trên, Đảng đoàn Bộ Nội Vụ (nay là Bộ Công an) Chỉ thị cho Bộ Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang: “Khẩn trương củng cố, kiện toàn tổ chức, xây dựng lực lượng Công an nhân dân vũ trang vững mạnh để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Kiện toàn bộ máy, tổ chức lãnh đạo, chỉ huy Công an nhân dân các tỉnh phía Nam, khẩn trương triển khai đồn, trạm quản lý, bảo vệ biên giới”.

Cuối tháng 5/1975, tại tỉnh Gia Lai, sau khi khảo sát tình hình, đoàn công tác của Bộ Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang làm việc với Thường trực Tỉnh ủy, Ủy ban cách mạng và Trưởng ban an ninh Tỉnh thống nhất phương án tổ chức An ninh vũ trang Biên phòng tỉnh Gia Lai: Quyết định thành lập tại tỉnh Gia Lai tiểu đoàn An ninh nhân dân vũ trang Biên phòng gồm: Ban Chỉ huy tiểu đoàn, tiểu đoàn bộ, 04 đồn Biên phòng và 01 đại đội Cơ động.

Những ngày đầu triển khai lực lượng dọc tuyến biên giới có thể nói là quãng thời gian cực kỳ gian khổ, đầy rẫy những thử thách cam go. Khu vực biên giới của tỉnh lúc bấy giờ chỉ có 04 xã là B11, B12, B10 và E4 (nay là xã IaChía, Iao, IaKla và IaMơ) thuộc khu 4 và khu 5 với 31 làng, 1.904 hộ/6.887 khẩu (trong số này có 05 làng từ các ấp chiến lược trở về). Đời sống của nhân dân phải đối mặt với hàng loạt khó khăn, chủ yếu là thiếu lương thực và bệnh tật hoành hành. Chỉ riêng trong tháng 8/1975, tại xã E1 (Ia Pnôn ngày nay) dịch bệnh làm chết 31 người, chủ yếu là người già và trẻ em. Bên cạnh đó tình trạng thiếu lương thực, gây ra nạn đói cục bộ cũng diễn ra trên tất cả 31 ngôi làng dọc biên giới.

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Ban Chỉ huy Tiểu đoàn An ninh vũ trang tỉnh, cấp ủy, Ban Chỉ huy đồn Biên phòng 23 đã làm tốt công tác động viên CB,CS ổn định tư tưởng, nhanh chóng kiện toàn tổ chức biên chế, vừa tập trung xây dựng đơn vị, vừa chủ động phối hợp với các ban ngành đoàn thể của địa phương tổ chức lực lượng thường xuyên bám nắm địa bàn, cứu đói, khám, chữa bệnh cho nhân dân, đồng thời đẩy mạnh việc xây dựng, củng cố hệ thống chính trị địa phương.v.v. Để giải quyết khối lượng công việc đồ sộ như thế, CB,CS trong đơn vị luôn quán triệt và thực hiện tốt phương châm “ba cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm) với dân, giúp nhân dân nạo vét kênh mương, sửa chữa nhà cửa, làm đường giao thông.v.v. Cùng với đó, đồn đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chủ trương của cách mạng cho nhân dân hiểu và thực hiện.

Sau khi nhận được điện của Bộ Tư lệnh Quân Khu V, ngày 07/01/1976, Quân khu Đông Bắc Campuchia đã cử sỹ quan liên lạc đến Đồn Biên phòng 23 đưa thư thông báo chấp nhận. Ngày 13/01/1976, 2 đoàn gặp nhau tại Đồn Biên phòng 23 để chuẩn bị cho lần gặp nhau chính thức đầu tiên được ấn định vào ngày 05/02/1976 tại Đồn 19 Cảnh sát Biên phòng Campuchia. Trong lần gặp gỡ này, 2 bên đã thỏa thuận: “Đối với khu vực Tây Sa Thầy, trong khi chờ đo đạc, xác minh, lực lượng vũ trang 2 bên đóng nguyên ở vị trí hiện tại, không có hoạt động triển khai thêm quân. Campuchia đồng ý thả toàn bộ dân làng Sộp và trao trả số tài sản mà họ đã lấy của người dân cho phía Việt Nam.. Tuy vậy, trong thời gian này phía Campuchia vẫn tiếp tục có những hành động trắng trợn xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam.

Ngày 06/10/1977, Đồn CANDVT 23 (IaKla) được đổi tên thành Đồn CANDVT 649 (IaKla). Tiếp đó ngày 25/10/1977 liên bộ Quốc phòng – Nội vụ ra Chỉ thị số 86/CT-QP-NV về hiệp đồng chiến đấu giữa lực lượng Quân đội – CANDVT tuyến biên giới Việt Nam – Campuchia, theo đó toàn bộ công tác đảng đặt dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy.

Trước các hoạt động vi phạm ngày càng nghiêm trọng của phía Campuchia, thực hiện mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh và Ban Chỉ huy CANDVT tỉnh, Cấp ủy, Ban Chỉ huy Đồn 649 đã kịp thời tổ chức quán triệt và triển khai cho CB,CS luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, tích cực xây dựng, củng cố hệ thống hầm hào, công sự. Nơi làm việc của Ban Chỉ huy đồn, các tiểu đội, quân y, báo vụ, cơ yếu, lô cốt phòng thủ trận địa cối 60, 82mm đều xây dựng hầm, nhà hầm nối liền với giao thông hào, hình thành trận địa liên hoàn, vững chắc, sẵn sàng đánh bại mọi cuộc tấn công của địch, thường xuyên bám trụ địa bàn, khu vực biên giới, kiên quyết chiến đấu bảo vệ dân, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ….

Tại khu vực Đồn Biên phòng 649, ngay từ đầu năm 1978, địch liên tục tổ chức lực lượng trinh sát, tập kích hỏa lực vào Đồn, cho quân vây hãm, gài mìn, cắm chông xung quanh khu vực của Đồn. Từ tháng 01 đến tháng 4/1978, CB,CS Đồn Biên phòng 649 đã phát hiện và làm thất bại 40 lần trinh sát, cắm chông, gài mìn của địch, tháo gỡ 96 quả mìn PK2, 17 lựu đạn, 02 mìn chống tăng.

Trận chiến đấu thứ 2 của Đồn diễn ra vào sáng ngày 19/5/1978, đúng ngày sinh nhật của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Như thường lệ, đội tuần tra của Đồn Biên phòng 649 gồm 07 đồng chí đang trên đường tuần tra, dò mìn, gỡ chông chống lấn chiếm Biên giới thì phát hiện một toán 05 tên Khmer Đỏ đang đào công sự trên đường biên giới, cách đồn khoảng 700 mét về hướng Tây Nam. Để ngăn chặn hành vi lấn chiếm biên giới, chiến sỹ Rơ Lan Din dùng B40 bắn thẳng vào đội hình địch, tiêu diệt tại chỗ 01 tên, thu 01 súng AK. Sau khi tháo chạy sang biên kia biên giới, đến khoảng hơn 10 giờ trưa cùng ngày, địch củng cố lại đội hình, tổ chức đánh phản công sang ta. Lúc này đội tuần tra có lực lượng chi viện từ đồn đã bình tĩnh tổ chức đánh địch, khéo léo câu nhử chúng vào bãi mìn ta cài sẵn tiêu diệt thêm 02 tên, thu 02 súng AK.

Trước tình hình địch vây hãm, cô lập Đồn dài ngày, Ban Chỉ huy tiền phương CANDVT tỉnh đã điện báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên nhanh chóng điều động lực lượng chi viện đánh địch ở vòng ngoài, qua đó phá vòng vây đang ngày một siết chặt như gọng kìm của địch. Tuy nhiên, công điện của Bộ Tư lệnh Quân khu V trả lời với nội dung: “Yêu cầu Đồn Công an nhân dân Vũ trang 649 bằng mọi giá phải giữ cho được mục tiêu trong vòng 01 tuần, nhằm thu hút địch để Quân khu thực hiện theo yêu cầu của chiến dịch”. Ý kiến chỉ đạo của Quân khu cũng đồng nghĩa với mệnh lệnh “tử thủ”.

Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Quân khu V, Ban Chỉ huy tiền phương đã chỉ thị cho Cấp ủy, Ban Chỉ huy Đồn Biên phòng 649 động viên CB,CS kiên cường bám trụ, không được chủ quan mất cảnh giác, kiên quyết không để cho địch tiến công đánh chiếm đồn. Tuy nhiên về phía địch, chúng sợ hệ thống vật cản 03 lớp (chông, mìn, bùng nhùng) của Đồn nên không giám tiến vào mà chỉ áp sát lợi dụng công sự, địa hình, địa vật và dùng hỏa lực từ xa bắn vào uy hiếp, vây hãm dài ngày, làm tiêu hao sức lực của ta, dẫn đến mất cảnh giác, chờ thời cơ tiến công đánh chiếm Đồn. Nắm bắt được ý đồ này, những ngày đầu ta không nổ súng bắn trả mà chỉ tổ chức quan sát, cảnh giới. Sau khi đã xác định được vị trí hỏa lực của địch, Cấp ủy, Ban Chỉ huy Đồn Biên phòng 649 mới quyết địch sử dụng các loại súng hạng nặng như cối 82, cối 60, M79 phản kích gây cho chúng nhiều thiệt hại. Cuộc chiến đấu vì thế cứ diễn ra giằng co giữa một bên là đội quân xâm lấn khát máu, lực lượng đông lại có vũ khí hạng nặng yểm trợ và một bên đang ở thế bị bao vây cô lập, chiến đấu bằng tất cả lòng quả cảm của mình.

Sang năm 1976, thực hiện chính sách khoan hồng kết hợp với công tác phát động quần chúng, ta đã thả phần lớn số FULRO bị bắt trước đây về đoàn tụ với gia đình. Tuy nhiên, lợi dụng sơ hở của ta, bọn đầu sỏ FULRO tiếp tục thực hiện chủ trương tập hợp lực lượng, lén lút hoạt động. Chỉ trong một thời gian ngắn (từ tháng 01 – 08/1976) chúng đã thành lập được 01 khung Sư đoàn, 01 khung Trung đoàn, 05 khung Tiểu đoàn và đến tháng 09/1976 chúng công khai hoạt động chống phá ta trở lại.

Trước tình hình FULRO khôi phục tổ chức và tiếp tục chống phá cách mạng, ngày 10/10/1976, Thường vụ Tỉnh ủy ra Chỉ thị mở đợt truy quét FULRO toàn diện và triệt để trên địa bàn Tỉnh. Từ tháng 10 – 12/1976, thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Ban chỉ huy Công an nhân dân vũ trang tỉnh, Cấp ủy, Ban Chỉ huy Đồn Biên phòng 649 một mặt chủ trương tập trung đấu tranh với các hoạt động xâm phạm chủ quyền Việt Nam của bọn Khmer Đỏ, mặt khác chủ động phối hợp với huyện đội Chư Prông (lúc bấy giờ huyện Đức Cơ chưa chia tách thành lập) tổ chức hàng chục đợt truy quét FULRO ở địa bàn này. Song song với đó, đẩy mạnh công tác trinh sát, thường xuyên nắm chắc địa bàn phụ trách và các khu vực lân cận, theo dõi sát sao mọi di biến động của các loại đối tượng, kịp thời phát hiện, bắt giữ nhiều toán FULRO xâm nhập vào khu vực biên giới để câu móc phát triển lực lượng.

Ngay sau khi sự việc FULRO bắt 442 người xảy ra, chấp hành mệnh lệnh của Ban chỉ huy Công an nhân dân vũ trang tỉnh, cấp ủy, Ban chỉ huy Đồn Biên phòng 649 đã chỉ đạo các tổ đội, lập tức triển khai lực lượng chốt chặn, phong tỏa các tuyến đường sang Campuchia và tổ chức tuần tra, truy lùng dọc tuyến biên giới. Sau hơn một tuần ròng rã ăn cơm nắm, ngủ rừng, cán bộ, chiến sĩ Đồn 649 cùng với Đại đội Cơ động và Đồn 653 đã phát hiện, ngăn chặn đưa 115 người trở về giao cho chính quyền địa phương xử lý. Bên cạnh đó, 02 Đồn Biên phòng 653 và 649 tăng cường lực lượng xuống địa bàn vừa bảo vệ dân, vừa tuyên truyền phát động quần chúng đấu tranh tố giác FULRO, ổn định tình hình địa bàn. Đối với số gia đình có người bị bắt chạy theo FULRO sang Campuchia, đơn vị động viên, tạo mọi điều kiện giúp đỡ để bà con sớm ổn định cuộc sống, kiên quyết không để kẻ địch tiếp tục câu móc, lôi kéo dân ta chạy sang Campuchia, xây dựng các phương án bảo vệ địa bàn và tổ chức lực lượng đón bắt khi bọn chúng quay trở lại hoạt động. Cuối tháng 6/1977, đội công tác của Đồn Biên phòng 649 đã phát hiện và bắt được các tên Rơ Châm Giak, Rơ Lan Bông, Ksor Lok từ Campuchia xâm nhập về hoạt động ngoài rừng. Ban Chỉ huy Công an nhân dân vũ trang tỉnh đã chỉ đạo đơn vị nhanh chóng đưa 03 tên bị bắt ra giáo dục kiểm điểm trước dân nhằm vạch trần âm mưu, thủ đoạn của địch, giúp bà con nhân dân nêu cao tinh thần cảnh giác.

Trước những hoạt động ngày càng trắng trợn, manh động của bọn FULRO, để kịp thời đập tan mọi âm mưu, hoạt động phá hoại của chúng, chấp hành chỉ đạo của Tỉnh uỷ, ngày 20/5/1980,  Ban Chỉ huy Quân sự tỉnh đã ra mệnh lệnh cho lực lượng vũ trang của Tỉnh phối hợp với các ban ngành mở đợt tổng truy quét FULRO trên quy mô lớn. Ngày 11/10/1980, Phòng Biên phòng (lúc này Ban Chỉ huy CANDVT tỉnh đã sát nhập vào Tỉnh đội gọi là Phòng Biên phòng) đã tham mưu cho Ban Chỉ huy Quân sự tỉnh xây dựng kế hoạch truy quét FULRO trên cả hai tuyến biên giới Việt Nam – Campuchia và Việt Nam- Lào của tỉnh Gia Lai – Kon Tum, trong đó xác định địa bàn trọng điểm là tuyến biên giới Việt Nam – Campuchia.

Trước tình hình đó, đầu năm 1981, Tỉnh uỷ Gia Lai – Kon Tum ra Nghị quyết chuyên đề, chủ trương mở chiến dịch giải quyết FULRO. Nghị quyết xác định rõ “Chiến dịch giải quyết FULRO lần này là giải quyết dứt điểm FULRO từng làng, từng xã”. Thực hiện chủ trương của Tỉnh uỷ, Phòng Biên phòng đã kịp thời tham mưu cho Ban Chỉ huy Quân sự tỉnh chỉ đạo các Đồn Biên phòng phát động phong trào “toàn dân tham gia truy bắt FULRO”, thường xuyên bám nắm địa bàn và phát động quần chúng tố giác hoạt động của FULRO, tổ chức lực lượng phối hợp với các lực lượng truy quét, chặt cắt hành lang hoạt động của FULRO trên địa bàn phụ trách.

Do bị ta truy quét quyết liệt, lực lượng lớn của FULRO bị tiêu diệt, bị bắt và tự thú, đầu hàng; các cơ sở, khung chính quyền ngầm, các căn cứ lõm của chúng đã bị ta bóc gỡ, triệt phá, hành lang liên lạc của FULRO với nước ngoài bị chặt đứt. Vì vậy từ năm 1987 – 1991, do mất cơ sở, chỗ dựa để hoạt động, mặt khác do ta vẫn tiếp tục truy quét gắt gao nên bọn tàn quân FULRO trong nước, hoặc là co mình nằm im chờ thời cơ, hoặc tìm đường chạy trốn sang Campuchia. Ngày 10/10/1992, tàn quân FULRO ở Campuchia ra trình diện UNTAC và được đưa đi định cư tại Mỹ. Như vậy, đến cuối năm 1992, hoạt động vũ trang của FULRO cơ bản đã chấm dứt.

Trước tình hình diễn biến phức tạp trên, thực hiện chỉ đạo của Đảng ủy, Ban Chỉ huy Biên phòng tỉnh, Cấp ủy, Ban Chỉ huy Đồn CANDVT IaKla (649), lúc này đồn đổi phiên hiệu thành Đồn Biên phòng IaKla (721) đã xây dựng kế hoạch hiệp đồng chặt chẽ với lực lượng vũ trang địa phương, dân quân xã tiếp tục truy quét FULRO ngoài rừng, tăng cường tuần tra, kiểm soát, tổ chức mật phục, ngăn chặn vượt biên, xâm nhập; phối hợp cùng Công an, các đội công tác tích cực tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương củng cố hệ thống chính trị, ngăn chặn, phát hiện và bóc gỡ cơ sở ngầm của FULRO, đấu tranh với các loại tội phạm trên khu vực biên giới. Kết quả trong 02 năm 1987 – 1988 CB,CS Đồn Biên phòng 721 đã phối hợp với các lực lượng tổ chức tuần tra kiểm soát, lùng sục, mật phục được hàng chục lần với hàng trăm lượt CB,CS tham gia. Qua đó ta kịp thời phát hiện và xử lý nhiều trường hợp dân ta sang xâm canh trên đất bạn, cũng như người dân nước bạn sang xâm canh trên đất ta; xử lý hàng chục vụ dân ta vượt biên sang đất bạn khai thác dược liệu và đào đãi vàng, trầm hương trái phép; bắt giữ và bàn giao cho Công an xử lý hàng chục đối tượng phạm tội khác, thu nhiều hàng hoá có giá trị.

Trước tình hình nói trên, thực hiện sự chỉ đạo của Đảng ủy, Ban Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh, Cấp ủy, Ban Chỉ huy Đồn Biên phòng 721 (Cửa khẩu IaKla) đã tổ chức quán triệt tình hình, nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu cho toàn thể CB,CS trong đơn vị nắm, nâng cao cảnh giác, luôn sẵn sàng chiến đấu, một mặt vừa chủ động rà soát, xây dựng, bổ sung và tổ chức luyện tập các phương án bảo vệ Đồn…đào đắp, nạo vét hàng trăm mét hào, xây dựng mới hàng chục hầm, công sự chiến đấu, mặt khác đã phối hợp với các lực lượng thường xuyên tổ chức tuần tra, truy quét qua đó kịp thời phát hiện và đấu tranh có hiệu quả với các hoạt động vi phạm của các đối tượng trên khu vực biên giới, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia của tỉnh nhà.

Công tác bảo vệ chủ chủ quyền, ANBG trong giai đoạn này đặt ra nhiều yêu cầu mới, trong đó việc tham gia đấu tranh truy quét bọn phản động FULRO cũng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà Cấp ủy, Ban Chỉ huy Đồn Biên phòng 721 đã xác định. Bên cạnh tăng cường công tác tuần tra truy quét trên hành lang biên giới, quản lý chặt chẽ các địa bàn, đối tượng, lực lượng trinh sát của đồn âm thầm thọc sâu vào các địa bàn vùng đệm, vào các hang ổ của bọn FULRO từ bên kia biên giới để nắm tình hình phục vụ đấu tranh chuyên án và các chiến dịch truy quét. Cùng với các đơn vị BĐBP trên toàn tuyến, CB,CS của đồn tập trung mật phục trên “hành lang” hoạt động trọng điểm của FULRO từ núi Chư Pông qua Chư Ram về Ia Lâu, Ia Mơr tiếp giáp tỉnh Đắk Lắc. Riêng Đồn Biên phòng 721, từ năm 1989 – 1991, qua biện pháp công tác trinh sát nắm tình hình, đơn vị đã phát hiện một đường dây hoạt động FULRO xuyên biên giới do tên Rơ Lan HRich (tự xưng là Trung tá FULRO) cầm đầu. Đối tượng này có gốc gác ở xã IaPnôn, cư ngụ tại xã IaKla thường xuyên tổ chức người lén lút qua bên kia với lý do làm ăn, thăm thân… Tuy nhiên mục đích chính của hắn là âm thầm xây dựng lực lượng để chờ thời cơ quay về nước gây bạo loạn. Sau nhiều ngày theo chân “ngài trung tá”, các trinh sát Biên phòng đã vào tận bãi vàng Ôyache thuộc địa phận huyện Ôyadav của tỉnh Rattanakiri (Campuchia) tiến hành thu thập thông tin liên quan đến các đối tượng để phục vụ cho việc đấu tranh bóc trần hoạt động phản động chống phá chính quyền của Rơ Lan HRich và đồng bọn ngay sau khi bọn chúng quay trở về địa bàn. Việc đấu tranh xóa bỏ toán phản động FULRO do Rơ Lan HRich cầm đầu đã góp phần ổn định tình hình địa bàn, tạo niềm tin đối với quần chúng nhân dân, xoa dịu nỗi đau cho các gia đình có người thân bị FULRO sát hại.

Với những thành tích trên Đồn biên phòng CKQT Lệ Thanh đã được Đảng, Nhà nước, lãnh đạo chính quyền các cấp trao tặng nhiều phần thưởng cao quý như: Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (1979), Hai Huân chương chiến công hạng Ba (1977, 1994), Hai Huân chương chiến công hạng Nhì (1978, 1996); đơn vị nhiều năm liên tục được UBND tỉnh tặng Cờ thi đua (1976, 1977, 1978, 2011, 2012; 2017, 2019); Bộ Tư lệnh BĐBP tặng Cờ các năm (2021, 2023), tặng danh hiệu Đơn vị Quyết thắng (1977, 1990, 1993, 1994, 2002, 2004 và 9 năm liên tục từ 2007 đến 2015; các năm  2018, 2020)…; những năm tiếp theo các bộ, ngành Trung ương và địa phương trao tặng hàng trăm Bằng khen, Giấy khen và các phần th­ưởng cao quý khác cho nhiều tập thể và cá nhân của đơn vị vì đã có thành tích xuất sắc. /.

Bài, ảnh: KIÊN QUYẾT

Để lại một bình luận